Phân bố số đo góc cổ tử cung ở thai phụ đơn thai tuổi thai từ 16 đến 24 tuần

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF Download: 60 View: 60

Indexing

CÁC SỐ TỪ 2011-2023
Tạp chí Y Dược Học

Tóm tắt

Góc cổ tử cung gần đây đã được nghiên cứu như một thông số siêu âm tiềm năng dự báo nguy cơ sinh non tự nhiên. Mục tiêu: mô tả sự phân bố số đo góc cổ tử cung ở thai phụ đơn thai tuổi thai từ 16 đến 24 tuần. Đối tượng và phương pháp: Siêu âm đường âm đạo đo góc cổ tử cung được thực hiện trên 754 thai phụ đơn thai, thai sống, tuổi thai từ 16 - 24 tuần tại Khoa Quản lí thai nghén & Chẩn đoán trước sinh, Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng trong thời gian 09 tháng từ 09/2019 đến 06/2020. Sử dụng phân tích hồi quy tuyến tính để đánh giá dãy giá trị của góc cổ tử cung theo tuổi thai. P < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Kết quả: Số đo góc cổ tử cung tuân theo quy luật phân phối chuẩn. Dãy giá trị bình thường của góc cổ tử cung (bách phân vị 5 và 95) từ 46,99o (KTC 95%: 35,45o - 44,31o) đến 125,38o (KTC 95%: 128,92o - 139,32o), với sự thay đổi đáng kể theo tuổi thai trong khoảng tuổi thai này (tăng 2,0o mỗi tuần, p < 0,001). Phần lớn các trường hợp sinh non trước 37 tuần, số đo góc cổ tử cung nằm trên đường bách phân vị 75 (38/47 trường hợp, chiếm 80,85%). Kết luận: Số đo góc cổ tử cung tăng đáng kể theo tuổi thai từ 16 - 24 tuần. Do đó nên có sự theo dõi và đánh giá góc cổ tử cung, đặc biệt trên những thai kỳ nguy cơ cao sinh non
https://doi.org/10.34071/jmp.2023.7.14
Đã xuất bản 01-12-2023
Toàn văn
PDF Download: 60 View: 60
Ngôn ngữ
Số tạp chí Tập 13 Số 7 (2023)
Phân mục Nghiên cứu
DOI 10.34071/jmp.2023.7.14
Từ khóa uterocervical angle, preterm birth, singleton pregnancy góc cổ tử cung, sinh non, đơn thai

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Y Dược Huế

Nguyễn, T. H. T., Nguyễn, V. Q. H., & Vũ, V. T. (2023). Phân bố số đo góc cổ tử cung ở thai phụ đơn thai tuổi thai từ 16 đến 24 tuần. Tạp Chí Y Dược Huế, 13(7), 108. https://doi.org/10.34071/jmp.2023.7.14